-->

Công ty chấm dứt hợp đồng lao động trái luật, xử phạt như thế nào?

Nghĩa vụ khi chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật: Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế...

Hỏi: Em có đi làm ở công ty có vốn đầu tư nước ngoài ở Đài Loan, em làm ở đó được 02 năm. Nhưng sau đó em có thai, và bị thai lưu 22 tuần. Theo quy định bảo hiểm thì em được nghỉ 40 ngày nhưng người chủ ở bộ phận em làm chỉ cho em nghỉ 02 tuần, nếu không sẽ đuổi việc em. Đề nghị Luật sư tư vấn, nếu trong trường hợp của em, em nghỉ ốm theo đúng quy định là 40 ngày, sau đó quay lại bị công ty đuổi việc thì công ty có vi phạm luật không? Và nếu vi phạm thì cty phải bồi thường cho em thế nào? (Lê Ánh - Thái Bình)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Minh Anh - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 30 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 quy định về thời gian hưởng chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu như sau: “Khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu thì lao động nữ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản mười ngày nếu thai dưới một tháng; hai mươi ngày nếu thai từ một tháng đến dưới ba tháng; bốn mươi ngày nếu thai từ ba tháng đến dưới sáu tháng; năm mươi ngày nếu thai từ sáu tháng trở lên.Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại Điều này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần”.

Theo thông tin chị cung cấp, trường hợp của chị thai lưu 22 tuần do đó, theo quy định trên, chị được nghỉ 40 ngày. Trường hợp của chị, bộ phận quản lý chỉ cho chị nghỉ 02 tuần như vậy là trái quy định của pháp luật. Và việc công ty buộc chị thôi việc trái pháp luật thì sẽ có nghĩa vụ theo quy định tại Điều 42 Bộ luật Lao động năm 2012 như sau:

“1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. 2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này. 3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động. 4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động. 5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước”.

Trường hợp của chị nếu công ty làm trái pháp luật thì chị có quyền khiếu nại đến ban giám đốc công ty để được giải quyết.

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.