-->

Có thể tố cáo tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không?

Công ty Luật TNHH Everest tư vấn trường hợp tố cáo tội lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Hỏi: Lúc trước tôi và anh A tình cờ biết nhau, sau khi quen biết được một thời gian. Anh A biết tôi có bán nước hoa hàng xách tay, anh A đã ngỏ ý muốn lấy nước hoa của tôi về bán lại kiếm lời. Tôi tin tưởng cho anh A lấy nước hoa về bán. Do là bạn bè nên tôi cung không làm biên nhận giao hàng. Khi anh A bán, anh A có trả tiền cho tôi nhưng còn thiếu lại 04 chai nước hoa, trị giá: 6.300.000 đồng. Nhưng khi tôi đòi số tiền còn lại, anh A hứa sẽ trả cho tôi, nhưng đến nay nhiều lần tôi điện thoại cho anh A nhưng anh A không bắt máy. Tôi nhắn tin nhắc anh thì anh hẹn nhiều lần. Và đến nay, tôi nhắn tin nhắc anh A trả tiền, thì anh A cũng không trả lời. Trường hợp này tôi có thể tố cáo anh A lợi dụng sự tín nhiệm để chiếm đọat tài sản hay không? Tôi chỉ có bằng chứng là những tin nhắn anh A nhiều lần hứa hẹn trả tiền cho tôi, như vậy có được không? (Trung Hành - Hà Nội)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật tố tụng của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Căn cứ theo Khoản 1 Điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định:

"1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốntriệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn giandối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản".

Như vậy sẽ có hai trường hợp xảy ra: Thứ nhất: bằng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn chiếm đoạt tài sản của ngườikhác đã đượcgiao cho mình trên cơ sở hợp đồng vay, mượn, thuê... Thứ hai là sử dụng tài sản đượcgiao trên cơ sở hợp đồng vay, mượn, thuê... vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả. Như vậy, sau khi vay, mượn, thuê tài sản của người khác, người phạm tội phải có hành vi bỏ trốn hoặc bằng thủ đoạn gian dối (giả tạo bị mất, đánh tráo tài sản...) để chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng tài sản đó và mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản, thì mới đủ cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp này do không có căn cứ đầy đủ chứng minh A bỏ trốn hoặc dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản nên không thể khẳng định A phạm tội hay không. Tuy nhiên trường hợp này đã có dấu hiệu tội phạm vì A có hành vi trốn tránh nghĩa vụ trả nợ (hẹn nhiều lần khôngtrả, nhắn tin gọi điện khôngtrả lời....) nên bạnnày có thể làm đơn tố giác tội phạm.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật tố tụng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.