-->

Chịu trách nhiệm hình sự về tội đồng phạm với vai trò giúp sức của tội đánh bạc

Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tội đánh bạc.

Hỏi: Tôi đang dính vào vụ án đánh bạc, đã bị tuyên án 15 tháng tù giam với tội đồng phạm giúp sức đánh bạc. Sau đó 14 ngày Viện kiểm sát kháng nghị nội dung là (Vì nể nang chổ bạn bè nên (T) đã đồng ý cho (Bạn) và những con bạc mượn nhà để đánh bạc và không thu lợi trong việc đánh bạc của các con bạc, nên hành vi phạm tội của bị cáo chỉ là đồng phạm với vai trò giúp sức.) đề nghị giảm mức hình phạt tù. Kết luận điều tra thu trên chiếu bạc là 3.000.000 đ nhưng phân tích trong bản kết luận điều tra thì số tiền dùng để đánh bạc của những người này cộng lại là 1.500.000đ như vậy tòa tuyên những người này phải chịu TNHS có đúng không? Trường hợp của tôi thì xử lý như thế nào (Phạm tội lần đầu, trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo)? Chi phí bảo chữa cho trường hợp của tôi là bao nhiêu, mức án phải chịu tại phiên xử phúc thẩm tối thiểu là phải chịu như thế nào? (Hồng Hoàng - Nam Định)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Lương Thị Anh Thư - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

-Thứ nhất về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với việc đánh bạc :

Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHS) quy định về tội đánh bạc như sau:

1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;

c) Tái phạm nguy hiểm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”.

Ngoài ra, theo quy định tại điểm a khoản 4 điều 1 nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP hướng dẫn quy định về tội đánh bạc thì việc xác định "số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc đối với trường hợp có nhiều người cùng tham gia đánh bạc đối với từng người đánh bạc là tổng số tiền, giá trị hiện vật của những người cùng đánh bạc được hướng dẫn tại khoản 3 Điều này"

3. “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:

a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;

b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;

c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.”

Như vậy, theo quy đình trên thì việc xác định số tiền dùng để đánh bạc đối với trường hợp có nhiều người cùng tham gia đánh bạc đối với từng người sẽ căn cứ vào số tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc, ngoài ra theo kết luận điều tra thì tổng số tiền những người này dùng để đánh bạc cộng lại là 1.500.000đ điều này có thể hiểu là số tiền 1.500.000 đồng là số tiền thu được trong người những người đánh bạc này. Và cộng số tiền đánh bạc thu được trên chiếu bạc với số tiền 1.500.000 này thì số tiền đánh bạc sẽ là 4.500.000 đồng nên đương nhiên trong trường hợp này những người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc

-Thứ hai: về việc giảm nhẹ hình phạt

Điều 46 BLHS bao gồm:

"1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra;

e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

h) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

i) Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;

k) Phạm tội do lạc hậu;

l) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

m) Người phạm tội là người già;

n) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

o) Người phạm tội tự thú;

p) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

q) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm;

r) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

s) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác.

2. Khi quyết định hình phạt, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt".

Như vậy, căn cứ theo quy định trên thì bạn đã có được 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên tùy vào từng trường hợp cụ thể Tòa án có thể xác định mức án phạt phù hợp với tình hình của bạn.

-Thứ ba: về mức án phí phúc thẩm

Do trường hợp vụ án của bạn là do Viện kiểm sát kháng nghị nên theo quy định tại điều 10 pháp lệnh án phí và lệ phí 2009 thì trường hợp này sẽ không phải chịu án phí phúc thẩm:

Những trường hợp sau đây không phải nộp tiền tạm ứng án phí, án phí:

1. Người khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân;

2. Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước;

3. Viện Kiểm sát khởi tố vụ án hành chính;

4. Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm;

5. Cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều này kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm”.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.