-->

Bằng độc quyền sáng chế - một loại tài sản trí tuệ đặc biệt

Sáng chế không giống như tài sản vật chất mà chúng ta đang sở hữu. Nhưng khi bằng độc quyền sáng chế được sử dụng để bảo bộ sáng chế thì hành vi bảo hộ đó đã biến sáng chế thành một loại tài sản tư hữu mà chủ sở hữu có thể kiểm soát.

Trong nền kinh tế ngày càng dựa nhiều vào tri thức, bạn luôn cần những ý tưởng hoặc khái niệm sáng tạo để cải thiện tính năng hiện có, bổ sung những tính năng hữu ích mới cho sản phẩm của bạn hoặc phát triển một sản phẩm hoàn toàn mới.Trong những tài sản trí tuệ liên quan đến tính mới và tính ứng dụng cao không thể không nhắc tớibằng độc quyền sáng chế.
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Một là, các vấn đề cơ bản về bằng độc quyền sáng chế

Bằng độc quyền sáng chế là độc quyền do chính phủ cấp cho một sáng chế, đó là một sản phẩm hay quy trình kỹ thuật nói chung mà đưa ra phương pháp mới để thực hiện một việc gì đó, hoặc đưa ra một giải pháp kỹ thuật mới cho một vấn đề cụ thể.

Để được bảo hộ độc quyền, sáng chế phải đáp ứng ba điều kiện sau:

i) Sáng chế phải có tính mới;
ii) Sáng chế phải có trình độ sáng tạo (nghĩa là không hiển nhiên đối với người có trình độ trung bình trong lĩnh vực công nghệ có liên quan);
iii) Sáng chế phải có khả năng áp dụng công nghiệp.

Cơ quan sáng chế quốc gia hoặc khu vực có thẩm quyền cấp bằng độc quyền sáng chế. Khi được cấp, bằng độc quyền sáng chế sẽ có giá trị pháp lý trong thời gian tối đa 20 năm, tính từ ngày đơn đăng ký sáng chế đó được nộp, với điều kiện là phí duy trì hiệu lực được nộp đúng thời hạn trong khoảng thời gian đó và bằng độc quyền sáng chế không bị hủy bỏ hoặc không bị tòa án tuyên bố vô hiệu.

Bằng độc quyền sáng chế là quyền có tính chất lãnh thổ, do đó hiệu lực của nó chỉ giới hạn trong lãnh thổ địa lý của nước hoặc khu vực có liên quan mà đã cấp bằng độc quyền sáng chế. Để nhận được sự bảo hộ sáng chế ở nước khác hoặc khu vực khác, nhiều đơn sáng chế có thể phải được nộp tại Cơ quan sáng chế quốc gia hoặc khu vực có liên quan trong thời hạn do pháp luật quy định.

Giống như chủ sở hữu của bất kỳ tài sản cá nhân nào khác, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế có quyền ngăn cấm người khác sử dụng, từ bỏ, bán sáng chế đó, nghĩa là chuyển nhượng để lấy một khoản tiền hoặc miễn phí (tặng) và cho phép một hoặc nhiều người sử dụng sáng chế trong khi vẫn giữ được quyền sở hữu bằng cách "chuyển giao quyền sử dụng” sáng chế cho một hoặc nhiều mục đích cụ thể, trong một thời hạn nhất định, ở một hoặc nhiều nước.

Việc chuyển giao quyền sử dụng luôn được thực hiện để đổi lấy một giá trị cụ thể, có thể bằng tiền hoặc hiện vật, do các bên thoả thuận và được quy định trong một hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng được ký chính thức và bằng văn bản.

Hai là, vai trò của sáng chế

Sáng chế không giống như tài sản vật chất mà chúng ta đang sở hữu. Nhưng khi bằng độc quyền sáng chế được sử dụng để bảo bộ sáng chế thì hành vi bảo hộ đó đã biến sáng chế thành một loại tài sản tư hữu mà chủ sở hữu có thể kiểm soát.

Tuy nhiên, theo một số khía cạnh, các quyền đối với sáng chế có thể tương đương với các quyền đối với một mảnh đất. Bằng độc quyền sáng chế trao cho chủ sở hữu quyền pháp lý, giống như đối với mảnh đất, nhằm ngăn cấm tất cả người khác xâm phạm sáng chế, giống như chủ sở hữu của mảnh đất có quyền ngăn cấm kẻ trộm xâm nhập, sử dụng hoặc chiếm đoạt mảnh đất của mình.

Tuy nhiên, không giống như quyền đối với mảnh đất, bằng độc quyền sáng chế không trao cho chủ sở hữu quyền sử dụng sáng chế được bảo hộ mà là quyền ngăn cấm hoặc ngăn chặn người khác sử dụng sáng chế. Nguyên nhân của việc này chính là sáng chế được dựa trên ý tưởng mà đang được bảo hộ độc quyền sáng chế bởi người khác, và các bằng độc quyền sáng chế khác vẫn đang có hiệu lực pháp lý.

Nói cách khác, tình trạng này là kết quả của việc các sáng chế được bảo hộ độc quyền tiếp tục được cải tiến theo cách mới và không hiển nhiên sẽ trở thành sáng chế được bảo hộ độc quyền. Vì vậy, trong khi ranh giới của hai mảnh đất không bao giờ chồng lên nhau thì quyền của các chủ sở hữu sáng chế có thể chồng lên nhau.

Nói cách khác, bằng độc quyền sáng chế trao cho chủ sở hữu “độc quyền để ngăn cấm người khác” nhưng không phải “sự tự do sử dụng” sáng chế được bảo hộ. Vì vậy, bằng độc quyền sáng chế cho phép chủ sở hữu quyền độc ngăn cấm hoặc ngăn chặn người khác chế tạo, sử dụng, chào bán, bán hoặc nhập khẩu sản phẩm hoặc quy trình.

Luật gia Bùi Thị Phượng - Phòng Sở hữu trí tuệ của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn 1900 6198, tổng hợp.

Khuyến nghị:
  1. Bài viết nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: [email protected], [email protected].