Bà nội hoàn toàn có quyền định đoạt đối với phần tài sản đó nên bà hoàn toàn có thể để lại di chúc cho anh (chị) hưởng phần di sản của mình mà không cần sự đồng ý của các con.
Hỏi: Ông bà nội của tôi có 09 người con. Tất cả đãđượcông bà chia đất đầy đủ. Tôi là cháu ở với ông bà nội từ lúc 09 tháng tuổi. Ông nội của tôi mất đã không để lại di chúc, giờ chỉ còn bà nội. Tôi đã lấy vợ và đang ở cùng bà. Bà tôi đồng ý cho tôi mảnh đất của ông bà còn lại, nhưng các chú, bác tranh giành. Bà không đồng ý, bởi ông bà đã chia cho các chú, các bác từ trước. Đề nghị Luật sư tư vấn, nếu bà tôi viết di chúc để lại mảnh đất cho tôi, có làm công chứng thì đây có phải là căn cứ hợp pháp không? (Phan Như Quỳnh - Quảng Ninh)
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo như thông tin anh (chị) cung cấp, ông của anh (chị) mất không để lại di chúc nhưng anh (chị) không nói rõ là mất khi nào. Do đó, chúng tôi có hướng tư vấn cụ thể cho anh (chị) như sau:
Mặc dù các con của ông bà anh (chị) đã được chia đất đai đầy đủ nhưng đây là chia từ trước lúc ông mất, các mảnh đất đã được tách thửa và có sổ đỏ riêng. Do vậy mảnh đất mà ông bà đang sống hiện tại sau khi chia thuộc quyền sở hữu riêng của ông bà. Do ông anh (chị) mất không để lại di chúc nên phần di sản thừa kế của ông anh (chị) trong khối tài sản chung với bà sẽ được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. Căn cứ pháp lý:
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định như sau:
Những trường hợp thừa kế theo pháp luật: “1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây: a) Không có di chúc” (Điều 675).
Người thừa kế theo pháp luật: "1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. 2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. 3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản” (Điều 676).
Căn cứ vào quy định trên, nếu như không có di chúc của ông để lại thì anh (chị) vẫn chưa được hưởng di sản thừa kế của ông, trừ trường hợp nhưng người trong hàng thừa kế không còn.
Về phần tài sản của bà nội, bà nội hoàn toàn có quyền định đoạt đối với phần tài sản đó nên bà hoàn toàn có thể để lại di chúc cho anh (chị) hưởng phần di sản của mình mà không cần sự đồng ý của các con. Sau khi hoàn tất di chúc, anh (chị) cần mang bản di chúc này đến công chứng tại văn phòng công chứng tư nhân hoặc công chứng tại xã, phường, thị trấn nơi anh (chị) đang sinh sống để bản di chúc này có hiệu lực pháp luật vì tài sản ở đây liên quan đến đất đai.
- Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
- Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
- Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.
Bình luận