-->

Tư vấn pháp luật về tội vu khống theo Bộ Luật Hình sự

Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo,...

Hỏi:Tôi quen và yêu 1 người đàn ông đã có vợ con, 2 người họ đã ly thân 4 năm và đang làm thủ tục ly hôn. Tôi và anh ấy đã về gia đình 2 bên, và không bên nào phản đối. Gia đình tôi ở trong Tây Nguyên, tôi hiện đang làm việc ở Hà Nội, thời gian gần đây có 1 người trong Tây Nguyên lan truyền tin tôi ngoài này bị đánh ghen, nhưng sự thật không có, làm gia đình tôi đảo lộn, mọi người dèm pha. Như vậy mong luật sư tư vấn, có phải người đó đã vi phạm tội vu khống người khác hay không, và tôi nên làm gì? (Gia Linh - Hà Nội)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198 Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198


Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 122 Bộ luật Hình sự quy định về tội vu khống như sau:"1. Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm:A) Có tổ chức;B) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; C) Đối với nhiều người;D) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;Đ) Đối với người thi hành công vụ;E) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm".

Về dấu hiệu pháp lý của Tội vu khống biểu hiện như sau:

-Khách thể:là quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền được tôn trọng và bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của con người. Đối tượng tác động làcon người.

-Khách quan:

+ Hành vi bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Đây là hành vi cố tình đưa ra những thông tin không đúng sự thật nhằm bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác hoặc làm ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

+ Hành vi loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích của người khác. Đây là trường hợp chủ thể không phải là người tạo ra thông tin bịa đặt đó nhưng khi thu được thông tin họ cố ý làm cho người khác biết mặc dù họ biết rõ đó là thông tin bịa đặt.

Tội phạm hoàn thành ngay từ khi những hành vi nói trên được thực hiện không phụ thuộc vào việc quyền lợi của nạn nhân đã bị xâm hại hay chưa.

-Chủ quan:Lỗi cố ý trực tiếp

-Chủ thể thực hiện hành vi: là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi từ 16 tuổi trở lên.

Như vậy, căn cứ theo những dấu hiệu pháp lý nêu trên, nếu người thực hiện việc loan tin bạn bị đánh ghen cố ý bịa đặt ra thông tin này hoặc không phải là người tạo ra thông tin bịa đặt đó nhưng khi biết thông tin mặc dù biết đó là thông tin bịa đặt nhưng vẫn cố tình cho người khác biết, làm ảnh hưởng đến danh dự của bạn thì người này đã phạm tội vu khống người khác.

Về thủ tục.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự:“Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất”.

Như vậy, khi bạn có chứng cứ chứng minh hành vi vu khống của người kia và bạn có thể gửi yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thể hiện dưới hình thứcđơnhoặc trình bày trực tiếp. Đơn yêu cầu khởi tố có chữ ký hoặc điểm chỉ của người yêu cầu. Trường hợp yêu cầu khởi tố được trình bày trực tiếp thì cơ quan điều tra, viện kiểm sát lập biên bản ghi rõ yêu cầu khởi tố có chữ ký hoặc điểm chỉ của người yêu cầu.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.