-->

Trách nhiệm hình sự đối với tội đánh bạc

Từ các căn cứ nêu trên thì việc viện kiểm sát truy tố buộc bạn của bạn chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng số tiền 6.300.000đ là đúng quy định của pháp luật.

Hỏi: Bạn tôi bị khởi tố về tội đánh bạc theo quy định tại điều 248. Vụ án này gồm có 13 bị can, đánh bài theo hình thức xì dách, chỉ có một người làm cái, tổng số tiền thu trên chiếu bạc và trong người chứng minh được dùng vào việc đánh bạc là 6.300.000đ;trong đó người làm cái có 2.300.000đ còn lại các con thì mỗi người có 400.000đ đến 500.000đ. Bạn tôi trong sử dụng tiền đánh bạc là 500.000đ, như vậy đối với trường hợp đánh bạc của bạn tôi là một người đánh với một người (con đánh với cái) như vậy trong trường hợp này chỉ có người làm cái mới đánh với tất cả các người còn lại (hình thức một người đánh với nhiều người) do đó người cái phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng số tiền 6.300.000đ như cáo trạng truy tố là chính xác. Nhưng bạn tôi cũng bị truy tố buộc chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền 6.300.000đ theo tôi nghĩ là không đúng, bạn tôi tham gia đánh bạc, hình thức đánh bài xì dách, chỉ đánh với cái (một người đánh với một người) do đó số tiền bạn tôi phải chịu trách nhiệm hình sự là 500.000đ(tiền của bạn tôi đánh bạc)+ 2.300.000đ (tiền của người cái) = 2.800.000đ như vậy mới chính xác. Xin hỏi luật sư trong trường hợp này viện kiểm sát truy tố buộc bạn tôi chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng số tiền 6.300.000đ có đúng quy định không và căn cứ thế nào? (Hà Nam - Thanh Hóa)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Khoản 3 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Điều 248 và 249 Bộ luật hình sự quy định:

“Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:

a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;

b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;

c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xácđịnh đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc."

Theo điểm a Khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP nêu trên thì trong trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việcxác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người đánhbạc làtổng số tiền, giá trị hiện vật của những người cùng đánh bạc được hướngdẫn tại khoản 3 Điều này. Như vậy, đối với vụ án nêu trên thì số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người sẽ là 6.300.000đ (tổng số tiền của 13 bị can).

Điều 248 quy định:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;

c) Tái phạm nguy hiểm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”.

Từ các căn cứ nêu trên thì việc viện kiểm sát truy tố buộc bạn của bạn chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng số tiền 6.300.000đ là đúng quy định của pháp luật.

Sắp tới ngày 01/07/2016, Bộ luật hình sự 2015 sẽ có hiệu lực, bạn có thể tham khảo thêm tại Điều 321 đối với các trường hợp xảy ra sau ngày 01/07/2016.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.