-->

Quy định về tặng cho bất động sản

Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.

Hỏi: Ngoại tôi có 4 người con, trước đây có 1 ngôi nhà thì được đứng tên của ngoại và 4 người con luôn.Sau đó, ngoại tôi muốn chuyển tên sang cho 2 người con trai đứng tên nhà, có yêu cầu mẹ tôi và dì ký tên chuyển nhượng theo dạng tặng cho nhưng không áp đặt điều kiện. Nay gia đình xảy ra mâu thuẩn ngoại tôi có yêu cầu 1 cậu sang tên trả nhà lại cho Ngoại, nhưng cậu không chịu.Vì vậy, tôi muốn hỏi là sau khi đã cho tặng vô điều kiện thì ngoại tôi có thể đòi lại được không ah? Trong điều kiện thượng lượng hai bên không được, thì làm đơn khởi kiện ra tòa thì thủ tục thế nào? (Hoàng Thùy - Thái Bình)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Bảo An- Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest- trả lời:

Điều 467 Bộ luật dân sự 2005 quy định như sau:

"1.Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.

2.Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản".

Theo đó, nếu trước đây những đồng sở hữu ngôi nhà đó đã ký hợp đồng tặng cho và đã hoàn thành thủ tục đăng ký sang tên căn nhà cho hai người con trai thì hiện tại, hai người con trai có toàn quyền đối với căn nhà nêu trên.

Sau khi đã hoàn thành thủ tục tặng cho căn nhà, bà bạn và hai người con gái không có quyền đòi lại căn nhà đó nữa.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.