-->

Luật sư tư vấn về tội đánh bạc bị phạt tù bao nhiêu năm?

Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi...

Hỏi: Gia đình tôi có người vi phạm đánh bạc 1 lần và đang được hưởng án treo ( phạt 18 tháng án treo) trong thời gian thi hành án còn 2 ngày hết hạn án treo thì lại bj bắt về tội đánh bạc .Vậy luật sư cho hỏi vs tôi như trên thì người nhà tôi sẽ bị phạt tù biêu năm, gia đình tôi có 3 huân huy trương kháng chiến của bố mẹ và anh trai ? (Nguyễn Hải - Hà Nội)


>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật tố tụng của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Điều 248 BLHS quy định về tội đánh bạc như sau:

“1. Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 249 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạttiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.Tội đánh bạc được quy định tại Điều 248 Bộ Luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 như sau:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn;

c) Tái phạm nguy hiểm”.

Dựa theo thông tin anh cung cấp thì người thân của anh đã bị kết án về tội đánh bạc và chưa được xóa án tích.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Điều 248 và Điều 249 Bộ luật hình sự như sau:

“2. Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét; cụ thể như sau:

a) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 2.000.000 đồng) và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc;

b) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh bạc đó;

c) Trường hợp đánh bạc từ hai lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự;

d) Trường hợp đánh bạc từ năm lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật hình sự”.

Do anh không nói rõ người thân của anh đánh bạc với số tài sản bao nhiêu, nên đưa ra các trường hợp sau để tư vấn cho anh:

Trường hợp thứ nhất, người thân của anh đánh bạc với tổng số tiền, giá trị hiện vật dưới hai triệu đồng thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trường hợp thứ hai, nếu tổng số tiền đánh bạc từ hai triệu đồng trở lên:

Theo duy định tại điểm b khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP thì người thực hiện hành vi đánh bạc phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc, theo khoản 1 Điều 248 BLHS thì người vi phạm sẽ bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

Trường hợp thứ ba, nếu đánh bạc từ hai lần trở lên và tổng số tiền của từng lần đánh bạc từ hai triệu đồng trở lên:

Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP thì người thực hiện hành vi này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 248 BLHS với tình tiết tăng nặng “Phạm tội nhiều lần” .

Trường hợp thứ tư, nếu việc phạm tội để lấy tiền làm nguồn sống chính:

Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 1 Nghị Quyết 01/2010/NQ-HĐTP thì người thực hiện hành vi đánh bạc phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 248 BLHS, theo đó, người phạm tội sẽ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 46 BLHS, bên cạnh các tình tiết nêu ở khoản 1 thì khoản 2 cũng quy định:"Khi quyết định hình phạt, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõtrong bản án”.

Theo đó, Điểm c khoản 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP quy định về tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 46 BLHS như sau: “Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước”.

Thông tin anh cung cấp là gia đình anh có ba huân chương kháng chiến của bố mẹ và anh trai có thể coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Nghị Quyết số 01/2000/NQ-HĐTP. Theo đó thì Tòa án sẽ căn cứ vào tình tiết này mà giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật tố tụng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.