-->

Con sinh ra sau khi ly hôn có được xem là con chung vợ chồng?

Nếu thời điểm chấm dứt hôn nhân (ly hôn) của anh và vợ cũ, đến thời điểm vợ cũ anh sinh con chưa quá 300 ngày, thì đứa trẻ sinh ra được coi là có thai trong thời kỳ hôn nhân, đương nhiên xác định là con chung của anh và vợ cũ.

Hỏi:Tôi và vợ đã ly hôn được gần 1 năm nay. Thời điểm ly hôn vợ cũ của tôi không hề có biểu hiện có thai. Tuy nhiên hiện nay, khi tôi chuẩn bị kết hôn với người khác, vợ cũ của tôi thông báo đã sinh con của tôi, và yêu cầu tôi có trách nhiệm với con. Đề nghị Luật sư tư vấn, trường hợp này tôi có phải chịu trách nhiệm với đứa trẻ đó không ? (Hoàng Sơn - Kiên Giang)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Anh - Tổ tư vấn Luật HN&GĐ của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về xác định cha, mẹ của con như sau:
“1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng”.

Như vậy, trong trường hợp này, nếu thời điểm chấm dứt hôn nhân (ly hôn) của anh và vợ cũ, đến thời điểm vợ cũ anh sinh con chưa quá 300 ngày, thì đứa trẻ sinh ra được coi là có thai trong thời kỳ hôn nhân, đương nhiên xác định là con chung của anh và vợ cũ. Ngược lại nếu thời điểm anh và vợ cũ ly hôn, đến thời điểm vợ cũ của anh sinh con vượt quá 300 ngày, thì đứa trẻ không được xem là con chung của anh và vợ cũ.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: [email protected].
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.ễn Thị Yến - Tổ tư vấn Luật HN&GĐ của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời: